This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2000

Tai biến mạch máu não

Đây là một biến chứng nặng, dễ tử vong, ảnh hưởng lớn tới sức khoẻ, tâm thần và đời sống người bệnh. Các di chứng tàn phế trở thành gánh nặng cho gia đình, xã hội.

Tai biến mạch máu não là gì?

Tai biến mạch máu não (TBMMN) là một tổn thương ở não, nguyên nhân do mạch máu não bị vỡ hoặc bị bít tắc. TBMMN có các dạng chính là chảy máu não, chảy máu màng não, nhũn não, hoặc phối hợp các loại.

Chảy máu não: Do vỡ các động mạch cấp máu cho não, liên quan với tình trạng tăng huyết áp hoặc dị dạng mạch máu não.

Nhũn não: Do một nhánh động mạch não bị bít tắc. Nguyên nhân bít tắc mạch máu não có thể do mảng xơ vữa, cục máu đông từ xa bắn tới. Nhũn não do mảng xơ vữa chủ yếu xảy ra ở các mạch máu lớn (động mạch cảnh trong, động mạch sống, động mạch nền) song cũng xảy ra ở các động mạch não nhỏ và vừa ở bất kỳ vùng nào. Thương tổn lúc đầu chỉ là mảng xơ vữa gây hẹp dần lòng mạch, từ đó tạo thành huyết khối, sau cùng gây tắc mạch. Huyết khối đôi khi hình thành mới dù không có xơ vữa từ trước gặp ở bệnh nhân có tình trạng tăng đông máu.

Ai hay bị tai biến mạch máu não?

TBMMN thường gặp ở nam giới hơn nữ giới. Lứa tuổi mắc bệnh là trung niên hoặc cao tuổi. Tuổi của những bệnh nhân TBMMN liên quan đến tăng huyết áp hay xơ vữa động mạch thường lớn hơn các bệnh nhân TBMMN do bệnh lý van tim.

Tai biến mạch máu nãoCác triệu chứng của tai biến mạch máu não.

Những đối tượng có nguy cơ cao bị TBMMN bao gồm: Đái tháo đường, tăng huyết áp, rối loạn mỡ máu, bệnh lý van tim, nhất là khi có rối loạn nhịp tim kèm theo.

TBMMN xảy ra ở bất kỳ giờ nào trong ngày và bất cứ mùa nào trong năm, song thường xảy ra 1-10 giờ sáng và vào các tháng nóng nhất (tháng 7, 8) hay lạnh nhất (tháng 12).

Dấu hiệu nhận biết

Dấu hiệu điển hình của TBMMN là đi lại khó khăn. Ngoài ra, có thể thấy chóng mặt, mất cân bằng, mất định hướng; nói ngọng hoặc khó nói, không nói được; Có thể có cảm giác lẫn lộn, không hiểu người khác nói gì; yếu, tê bì vùng mặt, tay, chân (triệu chứng tê yếu có thể xuất hiện đột ngột, đặc biệt quan trọng nếu xuất hiện ở một bên cơ thể. Cố gắng giơ cao hai tay cùng lúc, nếu một tay rớt xuống, điều đó gợi ý bạn bị TBMMN); đôi khi, triệu chứng yếu nửa người chỉ xuất hiện kín đáo, nhưng người bệnh bị méo miệng khi cười, nói; đau đầu; có thể có buồn nôn, nhìn mờ, mất ý thức.

Các biểu hiện thường xuất hiện đột ngột. Trường hợp nặng nhất, người bệnh thở nhanh dồn dập, có cơn ngừng thở ngắn hoặc hôn mê... Có bệnh nhân không hề có biểu hiện tê hoặc đau nào mà đột ngột đi vào hôn mê.

Cần lưu ý thời điểm xuất hiện triệu chứng, vì thời gian từ lúc bị bệnh đến lúc gặp nhân viên y tế có thể quyết định hướng điều trị của bác sĩ.

Làm sao xử trí?

TBMMN là một tình trạng cấp cứu. Khi thấy bệnh nhân có các biểu hiện yếu, liệt mặt, khó nói, nhiều người tưởng lầm bệnh nhân bị trúng gió và đè ra đánh gió, bắt uống nước chanh. Điều này rất không nên do vùng hầu họng đã bị liệt nếu bắt bệnh nhân uống nước sẽ gây sặc vào đường thở, làm suy hô hấp cấp hoặc gây tăng huyết áp thêm nữa và làm chậm trễ thời gian đưa đến bệnh viện.

Đối với người bị TBMMN não thời gian là vàng. Xử lý đúng nhất là gọi ngay xe cấp cứu hoặc taxi đưa ngay bệnh nhân đến bệnh viện càng sớm càng tốt. Càng đến bệnh viện muộn, nguy cơ tổn thương não càng cao. Để tối ưu hiệu quả điều trị, tốt nhất là được điều trị ở bệnh viện trong vòng 3 giờ sau khi xuất hiện triệu chứng đầu tiên.

Khi di chuyển bệnh nhân nên để bệnh nhân trên mặt phẳng, nghiêng mặt sang 1 bên, nới bớt quần áo cho thoáng. Nếu người thân của bạn bị TBMMN, hãy ở cùng người đó và theo dõi chặt chẽ, trong lúc chờ xe cấp cứu.

Không nên đưa bệnh nhân đến bệnh viện bằng xe máy vì có trường hợp bệnh nhân bị liệt một bên, không thể gác chân lên xe, khi đến bệnh viện chân bên liệt của bệnh nhân bị chấn thương chảy máu.

Điều trị như thế nào?

Điều trị cấp cứu

Khi đến bệnh viện, người bệnh sẽ được bác sĩ khám. Thầy thuốc sẽ chỉ định chụp CT hoặc MRI sọ não sớm nhất có thể. Thăm dò này giúp chẩn đoán phân biệt tình trạng chảy máu não với tình trạng tắc mạch não (nhũn não). Điều này rất quan trọng, vì xử trí trong hai trường hợp là hoàn toàn khác biệt.

Nếu người bệnh được chẩn đoán là nhũn não và đến bệnh viện trong vòng 4 giờ rưỡi kể từ sau khi xuất hiện triệu chứng, thầy thuốc sẽ dùng thuốc làm tan cục máu đông, dẫn đến phục hồi dòng chảy mạch máu não, qua đó cứu sống những vùng não bị chết do thiếu oxy tạm thời.

Điều trị lâu dài

Thuốc chống ngưng tập tiểu cầu

Tiểu cầu là những thành phần nhỏ trong máu, là nhân tố quan trọng của quá trình đông máu. Thầy thuốc sẽ sử dụng thuốc chống ngưng tập tiểu cầu trong trường hợp nhũn não. Thuốc hạn chế hình thành cục máu đông trong lòng mạch, ngăn ngừa những cơn đột quỵ có thể xuất hiện về sau. Aspirin (với liều thấp) là thuốc chống ngưng tập tiểu cầu phổ biến nhất. Ngoài ra, một loại thuốc khác cũng có thể được sử dụng là clopidogrel.

Nếu người bệnh không thể tự uống thuốc, các nhân viên y tế sẽ đặt một ống thông để truyền thức ăn và thuốc vào dạ dày.

Điều trị rung nhĩ

Bệnh nhân rung nhĩ có nguy cơ cao hình thành cục máu đông trong buồng tim, cục máu đông bắn lên não sẽ gây TBMN. Nếu người bệnh bị rung nhĩ, thầy thuốc sẽ sử dụng thuốc chống đông để ngăn ngừa hình thành cục máu đông. Thuốc chống đông phổ biến nhất là warfarin.

Điều trị hẹp động mạch cảnh

Người bị hẹp động mạch cảnh có nguy cơ đột quỵ cao. Nguyên nhân của hẹp động mạch cảnh thường do mảng xơ vữa. Nếu hẹp nhiều mạch cảnh, thầy thuốc có thể tiến hành thủ thuật nong hoặc đặt stent động mạch cảnh, hoặc tiến hành phẫu thuật bóc tách mảng xơ vữa.

Điều trị xuất huyết não hay xuất huyết dưới nhện

Trong trường hợp xuất huyết nhiều, thầy thuốc có thể chỉ định phẫu thuật để lấy huyết khối trong não. Đôi khi, phẫu thuật cũng được chỉ định để giảm áp lực trong sọ của người bệnh.

Các biện pháp tập phục hồi chức năng

Ngay sau khi tình trạng TBMMN ổn định, người bệnh sẽ được khuyên vận động sớm và bắt đầu các chương trình tập phục hồi chức năng. Điều này cũng giúp giảm nguy cơ tắc mạch do huyết khối tĩnh mạch.

Mục đích của liệu trình phục hồi chức năng là tối ưu hóa hoạt động thường ngày của người bệnh và cải thiện chất lượng cuộc sống sau TBMMN. Chương trình trị liệu bao gồm phục hồi chức năng vận động, phục hồi chức năng ngôn ngữ, chế độ ăn... Một chương trình phục hồi chức năng tốt sẽ thay đổi hẳn tiên lượng của người bệnh sau TBMMN.

Phòng ngừa tai biến mạch máu não

Có thể giảm nguy cơ TBMMN bằng cách dự phòng tình trạng xơ vữa mạch máu bằng cách:

Tăng cường tập thể dục, làm việc vừa sức, giảm cân, không ăn nhiều mỡ béo, nhiều chất bột, đường. Nên ăn nhiều rau, củ, trái cây.

Bỏ thuốc lá, thuốc lào vì các hoạt chất trong thuốc lá có thể gây tổn thương thành mạch, dẫn đến xơ vữa và hẹp mạch máu. Bỏ thuốc lá sẽ làm giảm đáng kể nguy cơ xuất hiện TBMMN.

Theo dõi huyết áp định kỳ (mức lý tưởng cho mọi lứa tuổi là không quá 120/80mmHg). Khi đã được phát hiện tăng huyết áp phải uống thuốc đều hàng ngày theo đơn thuốc của bác sĩ và đi khám lại định kỳ theo hẹn của bác sĩ chuyên khoa. Tránh chữa tăng huyết áp theo kiểu khi nào thấy mệt hoặc nhức đầu mới uống thuốc.

Nếu bị đái tháo đường, phải ăn uống theo chế độ của người đái tháo đường, không ăn đường, giảm tinh bột, ăn nhiều rau, đủ đạm, ít béo, chia nhỏ bữa ăn, uống hoặc tiêm thuốc theo đơn của bác sĩ chuyên khoa, tái khám và xét nghiệm máu định kỳ.

Chữa tăng cholesterol máu, ngừng uống rượu, điều trị bệnh tim nếu có.

ThS.BS. Đinh Huỳnh Linh

Trẻ đau bụng, chớ chủ quan

Bài viết dưới đây chúng tôi xin nêu những căn nguyên, biểu hiện đau bụng cấp ở trẻ em để bạn đọc nhận biết và đưa trẻ đến bệnh viện càng sớm càng tốt.

Viêm ruột thừa cấp: Có thể gặp ở mọi lứa tuổi trẻ em. Trẻ đau bụng tự phát khu trú ở hố chậu phải, kèm theo sốt vừa và nhẹ (380C), rối loạn tiêu hóa (buồn nôn, nôn) đau kèm theo phản ứng thành bụng khi sờ nắn vào hố chậu phải. Hỏi trẻ đau ở đâu, trẻ thường chỉ vào vùng rốn, trẻ mệt mỏi, buồn nôn và nôn. Cần xử lý bằng phẫu thuật. Nếu không mổ sớm thì ruột thừa bị mưng mủ hoặc hoại tử vỡ ra và gây viêm phúc mạc nguy hiểm đến tính mạng.

Để xác định nguyên nhân đau bụng ở trẻ em, cần có hiểu biết về cấu tạo khoang bụng.

Để xác định nguyên nhân đau bụng ở trẻ em, cần có hiểu biết về cấu tạo khoang bụng.

Lồng ruột cấp tính: Bệnh hay gặp ở trẻ dưới 2 tuổi. Biểu hiện: trẻ đau bụng với những cơn đau ngắt quãng, đau từng cơn, mỗi cơn đau khóc thét, uốn người kèm theo nôn, da tái nhợt, có khi nôn hoặc đi ngoài phân lẫn nhầy và máu. Cần đưa trẻ đến bệnh viện ngay, trẻ được bơm hơi, tháo lồng sẽ có kết quả tốt. Ngược lại, thể gây hoại tử ruột, phải mổ cắt ruột và việc hồi sức sau mổ sẽ gặp nhiều khó khăn.

Xoắn thừng tinh ở trẻ em nam: Trẻ đột ngột đau tinh hoàn kèm theo biểu hiện tăng thể tích tinh hoàn và rất đau khi sờ, đụng vào. Xoắn thừng tinh là một bệnh cảnh cần cấp cứu ngoại khoa can thiệp ngay. Nếu điều trị muộn tinh hoàn có thể bị hoại tử thành mủ, thoát ra khỏi bìu qua đường rò hoặc hoàn toàn bị teo trong vài tháng.

Xoắn u nang buồng trứng ở bé gái: Trẻ đau vùng bụng kèm theo nôn. Sờ nắn thấy một u ở vùng khung chậu - bụng.

Thoát vị bẹn nghẹn: Thắt nghẹn luôn là mối đe dọa đối với thoát vị bẹn ở trẻ em. Nguy cơ thắt nghẹn cao ở trẻ sơ sinh, trẻ sinh non. Khi bị nghẹt khối thoát vị căng và đau, sưng vùng bẹn hoặc bìu. Sờ, nắn vào trẻ phản ứng khóc to. Trong thoát vị bẹn ở nam các tạng sa xuống về phía bìu, còn ở nữ các tạng sa về phía môi lớn. Thoát vị bẹn nghẹt ở nam cũng như nữ nếu không xử trí kịp thời sẽ gây tổn thương nặng đối với tạng bị nghẹt, đặc biệt hoại tử vành quai ruột nguy hiểm đến tính mạng.

Lồng ruột - Một nguyên nhân gây đau bụng ở trẻ em.

Lồng ruột - Một nguyên nhân gây đau bụng ở trẻ em.

Bệnh động kinh thể bụng: Trẻ đau bụng, nhiều khi đau dữ dội, đau không theo chu kỳ, lúc đau lúc không, lúc sốt, đôi khi liên quan đến trạng thái thần kinh. Bệnh thường khó phát hiện, muốn chẩn đoán chính xác để điều trị bạn cần đưa trẻ đến bệnh viện làm xét nghiệm, đặc biệt là phải điện não đồ.

Giun chui ống mật: Trẻ đột ngột đau bụng dữ dội kèm nôn nhiều, có trẻ còn nôn ra giun. Trẻ đau từng cơn, đau lăn lộn, vật vã; có trẻ phải ôm bụng hoặc nằm phủ phục, chổng mông để bớt đau hoặc bắt bế vác lên vai, bụng tỳ vào vai mẹ chạy quanh nhà. Rồi đột nhiên cơn đau dịu đi, trẻ mệt mỏi, vã mồ hôi, bụng hơi trướng, có phản ứng ở một phần tư bụng trên-phải, dưới bờ sườn phải và điểm dưới mũi ức rất đau, có thể thấy khối u (búi giun) ở vùng thượng vị. Đây là một trong những trường hợp đau bụng thường gặp ở trẻ 3-7 tuổi. Giun đũa chui qua cơ vòng Oddi vào đường dẫn mật. Số lượng giun lên ống mật có thể chỉ một, vài con nhưng có trường hợp tới hàng trăm con.

Tắc ruột do bã thức ăn: Trẻ đau bụng kèm theo nôn, bí trung đại tiện. Cơn đau bụng xuất hiện có thể xảy ra đột ngột và dữ dội; kéo dài khoảng 2-3 phút, giảm dần rồi lại đau trở lại; lúc đầu cơn đau thưa, sau đó cường độ ngày càng tăng và càng mau; điểm đau trên rốn, quanh rốn bên trái hoặc bên phải bụng, vùng chậu... sau đó lan tỏa nhanh chóng ra toàn bụng. Tắc ruột còn có thể gặp ở trẻ bị nhiễm giun nhiều, cơ thể gầy yếu. Các trường hợp tắc ruột do bã thức ăn phải xử trí can thiệp bằng phương pháp phẫu thuật để lấy khối bã thức ăn ra mới khỏi được, vì vậy cần thận trọng trong việc ăn uống và nên tẩy giun định kỳ 6 tháng đến 1 năm/1 lần.

Lời khuyên của thầy thuốcTrẻ em bị đau bụng cần được theo dõi sát các dấu hiệu và nếu gặp một trong các trường hợp đau bụng cấp như trên cần đưa trẻ đến bệnh viện ngay. Không tự ý dùng thuốc cho trẻ làm lu mờ các triệu chứng của bệnh.

TS.BS. Lê Thị Hương

Đau mắt đỏ

Do cấu tạo vỏ dai chắc của virus adeno đã giúp chúng đề kháng tốt với môi trường có pH cực đoan, khả năng sống sót cao ngoài môi trường trên bề mặt mà chúng bám vào. Dịch đau mắt đỏ dễ bùng nổ do lây nhiễm chéo liên tục trong các cộng đồng dân cư tập trung cao như trường học, ký túc xá, trại dưỡng lão... Mùa hè ở nước ta do thời tiết mưa nắng thất thường là điều kiện thuận lợi cho adenovirus lan tràn trong cộng đồng, khiến bệnh lây lan và bùng phát thành dịch.

Cho đến hiện tại vẫn không có thuốc đặc trị, làm rút ngắn thời gian hay giảm tiến triển của bệnh này. Do vậy, chiến lược phòng bệnh vẫn là tối quan trọng để giảm lây nhiễm bệnh, giảm gánh nặng cho y tế công cộng.

Đau mắt đỏAdenovirus gây bệnh đau mắt đỏ

Cách nhận biết

Ở giai đoạn tiền triệu, đau mắt đỏ biểu hiện như bị nhiễm cúm bao gồm sốt, mệt mỏi, đau cơ. Sau đó các triệu chứng tại mắt nhanh chóng xuất hiện như: Đỏ mắt, phù mi, chảy nước mắt, cảm giác có cát trong mắt, cộm ngứa và sợ ánh sáng. Ban đầu bệnh thường xuất hiện ở một mắt nhưng có tới 70% sẽ bị cả hai mắt ngay trong tuần đầu tiên của bệnh, do lây theo con đường tay-mắt. Đau mắt đỏ thường khỏi sau 2-3 tuần, khả năng lây mạnh mẽ nhất từ ngày 10-14.

Đau mắt đỏ Đau mắt đỏ dễ gây biến chứng nếu không được điều trị thích hợp.

Ngay từ lần nhiễm virus đầu tiên bệnh nhân có thể bị giả mạc hay biến chứng vào giác mạc (lòng đen). Các thẩm lậu dưới biểu mô chính là tập hợp của bạch cầu và lắng đọng collagen có thể xuất hiện từ ngày thứ 7 đến ngày thứ 10 sau khi bị bệnh, có tới 50% vẫn còn tồn tại trong những tháng sau này, thậm chí tới 1 năm. Các tổn thương dưới biểu mô là nguyên nhân gây giảm thị lực và loạn thị không đều cần được chăm sóc và điều trị tiếp. Do vậy chẩn đoán sớm, kiểm soát viêm nhiễm tốt là nhân tố tối quan trọng để hạn chế các biến chứng tiềm tàng có thể gây tổn hại cho thị lực của bệnh nhân.

Chẩn đoán có khó?

Việc chẩn đoán hiện nay chủ yếu dựa vào lâm sàng. Có tới 62-75% các viêm kết mạc nhiễm trùng là do adeno virus gây ra, cần nhanh chóng chẩn đoán và dự phòng lây nhiễm. Cũng có những test chẩn đoán nhanh viêm kết mạc do adeno virus bằng bộ công cụ Adeno Plus (Rapid Pathogen Screening), ứng dụng kỹ thuật phản ứng miễn dịch với độ nhạy là 88% và độ đặc hiệu là 91%. Tuy nhiên công cụ trên không phổ biến trên toàn cầu một phần vì chẩn đoán lâm sàng cũng đã đủ độ tin cậy cần thiết. Hơn nữa tuy không đủ tính cảnh báo cần thiết về khía cạnh kinh tế-xã hội, tác động lên y tế công cộng, đau mắt đỏ vẫn có thể gây nên giảm năng suất lao động, tiềm tàng các nguy cơ mù lòa cho mắt. Không nhận biết dịch sớm, nghiên cứu không liên tục về chiến lược phòng ngừa và chẩn đoán có thể là những nguyên nhân làm bệnh lan tràn ngay trong các cơ sở khám chữa bệnh.

Điều trị đúng cách

Hiệu quả của corticosteroids

Trong quá khứ, các loại thuốc tra nhỏ có chứa corticosteroids như prednisolone rất hay được kê đơn để giảm nhẹ các triệu chứng của viêm nhiễm trong đau mắt đỏ. Nghiên cứu trên động vật thấy các steroids có tác dụng làm giảm viêm trong giai đoạn cấp, dường như giảm các đốm thẩm lậu dưới biểu mô. Tuy nhiên chúng lại tăng nguy cơ nhân đôi của virus, kéo dài thời gian bị bệnh trung bình của bệnh sang quá mốc 10-14 ngày. Viêm nhiễm kéo dài sẽ làm tăng đáng kể nguy cơ với cộng đồng, cơ quan, trường học. Bởi những lý do đó, điều trị phổ biến bằng corticosteroid không được khuyến cáo cho đau mắt đỏ. Bác sĩ khi muốn kê thuốc này cho các hình thái đau mắt đỏ nặng cần cân nhắc rất cẩn thận nguy cơ và lợi ích.

Nhỏ mắt bằng povidone-iodine

Một chiến lược điều trị mới bằng dung dịch sát trùng nhỏ mắt povidone-iodine (betadine, alcon) đã được nhen nhóm. Trên nghiên cứu cho thấy dược thiện này làm bất hoạt virus adeno chỉ sau 1 phút tiếp xúc. Một nghiên cứu khác cho thấy dung dịch 2% của betadine làm tăng thời gian bất hoạt virus, hạn chế sinh sôi đáng kể virus adeno trên bề mặt nhãn cầu.

Đau mắt đỏ Nước bể bơi không đạt tiêu chuẩn về khử khuẩn là nguồn gây và lây nhiễm đau mắt đỏ.

Tác dụng phụ hay gặp nhất là cảm giác đau chói khi tra nhỏ vào mắt. Do vậy, chúng ta nên dùng một giọt thuốc tê tra nhỏ trước khi dùng tiếp betadine trên mắt. Tiếp theo nữa là một giọt nước muối sinh lý sau khi đã nhỏ betadine nhằm làm giảm kích thích và nguy cơ nhiễm độc có thể có. Sau đây là trình tự tra nhỏ betadine:

Nhỏ thuốc gây tê 0,5% proparacaine ophthalmic solution, chờ 30 giây để thuốc có tác dụng.

Nhỏ vài giọt 5% povidone-iodine ophthalmic solution vào cùng đồ dưới.

Cho bệnh nhân nhắm mắt, chớp mắt để thuốc lan tràn vào các bình diện bệnh lý của mắt.

Chấm thuốc còn thừa, rửa nước muối sau 1-2 phút.

Phòng ngừa bệnh là rất quan trọng

Adenovirus có khả năng lây nhiễm cao, lan tràn qua tiếp xúc tay hay diện bề mặt nhiễm bệnh với mắt. Hậu quả là các nơi công cộng, dụng cụ y tế, phòng khám mắt đều có thể bị phơi nhiễm virus. Rất nhiều phòng khám đã phải xây dựng chương trình phòng ngừa ban đầu bằng rửa tay, vệ sinh trang thiết bị và dụng cụ y tế bằng lau cồn, dùng các dụng cụ loại một lần, cách ly bệnh nhân với người xung quanh. Một trong các chương trình như vậy được tiến hành tại Bệnh viện Johns Hopkins, Hoa Kỳ. Tại đây, họ tập trung các nhân viên y tế có đỏ mắt, qua thời gian bị bệnh có thể quyết định cách ly khỏi phòng bệnh nhân. Thêm nữa, có thể cho người chăm sóc bệnh nhân bị lây nhiễm nghỉ phép 14 ngày khi thấy họ có kết quả dương tính với phản ứng PCR dành cho adeno virus.

Đau mắt đỏCần đi khám chuyên khoa mắt sớm khi có biểu hiện của bệnh.

Vô khuẩn các bề mặt và dụng cụ: CDC (Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa bệnh tật quốc gia Hoa Kỳ) khuyến cáo dùng cồn 80 độ sẽ có tác dụng khử virus adeno trên các bề mặt. Với các loại nhãn áp kế, kết quả tổng kết mới đây cho thấy lau bằng gạc cồn cũng có tác dụng ngang bằng với việc ngâm dụng cụ bằng peroxide hay dùng đầu tip đo nhãn áp 1 lần để giảm khả năng lây nhiễm virus, trong khi vẫn cố gắng tiết kiệm chi phí.

Chiến lược phòng ngừa lan tràn của adenovirus

Các biện pháp sau đây cần được ứng dụng:

Xác định bệnh nhân nhiễm virus và cách ly họ vào phòng riêng.

Dùng các công cụ chẩn đoán nhanh xác định, lượng hóa và cách ly các đối tượng nhiễm virus adeno trong cộng đồng.

Rửa tay thật sạch sau khi tiếp xúc với bệnh nhân.

Khi không thể thay thế hoàn toàn bằng các dụng cụ loại dùng một lần từ dùng gạc cồn vẫn hữu hiệu để loại trừ virus gây đau mắt đỏ.

Dùng povidone-iodine nhỏ mắt, tránh dùng corticosteroids.

Giáo dục bệnh nhân về giai đoạn cửa sổ, nguy cơ cho gia đình, bạn bè nếu họ tiếp xúc.

Lưu ý, đau mắt đỏ cho dù là lành tính và tự khỏi nhưng vẫn có nguy cơ tiềm tàng gây biến chứng, ảnh hưởng tới sức khỏe cộng đồng. Vì vậy ngăn ngừa bệnh lây lan, quản lý tốt giai đoạn cửa sổ sẽ giúp cho bệnh không thể bùng phát và giảm nhẹ biến chứng.

Ngăn ngừa bệnh lây lan, quản lý tốt giai đoạn cửa sổ sẽ giúp cho bệnh không thể bùng phát và giảm nhẹ biến chứng.

BS. Hoàng Cương

Phát hiện và chọn cách chữa ung thư gan nguyên phát

Nhờ sự phát triển của chẩn đoán hình ảnh, công nghệ sinh học... việc chẩn đoán bệnh ung thư gan nguyên phát sớm hơn, một số thuốc điều trị đích đã và đang được ứng dụng phần nào cải thiện thời gian sống cho người bệnh.

Ung thư gan nguyên phát hay còn gọi là ung thư biểu mô tế bào gan là loại ung thư phổ biến trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Nguyên nhân của bệnh có liên quan rõ rệt với viêm gan virut B, viêm gan C, sán lá gan, vai trò của aflatoxin B1, rượu. Phòng bệnh ung thư gan hoàn toàn có thể ngăn ngừa được bằng cách tiêm phòng viêm gan, đặc biệt phụ nữ mang thai, trẻ em và thay đổi lối sống.

Điều trị cho bệnh nhân ung thư gan tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức. Ảnh: Q.N

Những biểu hiện thường gặp của ung thư gan

Ung thư (UT) gan sớm thường không có triệu chứng. Khi UT phát triển lớn hơn ta có thể nhận thấy một hoặc nhiều các triệu chứng như: cảm giác nặng, đau hoặc tự sờ thấy khối vùng hạ sườn phải. Mệt mỏi, mất cảm giác ngon miệng, gầy sút cân, buồn nôn và nôn. Vàng da, vàng mắt, phân nhạt màu, nước tiểu đậm màu. Khi có di căn xa có thể thấy kèm theo các triệu chứng của các cơ quan mà ung thư lan tới. UT gan thường lan đến phổi, có lẽ bằng đường máu. Một số ít trường hợp UT lan đến xương hoặc não.

Làm thế nào để biết bệnh ung thư gan?

Xét nghiệm máu

Không có xét nghiệm tầm soát đáng tin cậy và chính xác cho bệnh UT gan. Xét nghiệm sinh hóa sử dụng rộng rãi nhất là αFP (alpha-fetoprotein), αFP tăng gặp ở cả bệnh nhân viêm gan cấp và mạn tính (tăng mức độ nhẹ hoặc vừa). αFP tăng cao (trên 500ng/ml) rất gợi ý cho một UT gan, độ nhạy của αFP cho UT gan là khoảng 60%, do đó một αFP bình thường không loại trừ UT gan.

Chẩn đoán hình ảnh

Nghiên cứu hình ảnh siêu âm, CT scan, MRI đóng vai trò rất quan trọng trong việc chẩn đoán UT gan, giúp cung cấp thông tin về kích thước khối u, số lượng các khối u, sự xâm lấn và lan rộng của UT.

Sinh thiết gan hoặc hút tế bào

Thực hiện sinh thiết kim dưới hướng dẫn của siêu âm hoặc CT scan, nguy cơ hay gặp nhất của phương pháp này là chảy máu do UT gan là khối u rất giàu mạch máu. Trong một số trường hợp UT gan, mô UT rất giống mô gan lành dưới kính hiển vi. Đôi khi có thể nhầm lẫn UT gan và ung thư tuyến trong gan. Các tiến bộ trong hóa mô miễn dịch có thể giúp phân biệt các trường hợp này.

Hút tế bào an toàn hơn sinh thiết do ít nguy cơ chảy máu, tuy nhiên, mẫu bệnh phẩm thu được bằng hút là khó khăn hơn.

Nên chọn phương pháp nào để chữa trị?

Lựa chọn phương pháp điều trị được quyết định bởi các giai đoạn của UT gan và tình trạng chung của bệnh nhân.

Phẫu thuật cắt bỏ gan

Mục đích của phẫu thuật cắt gan là để loại bỏ hoàn toàn khối u và các mô xung quanh. Lựa chọn này được giới hạn ở những bệnh nhân có một hoặc hai u nhỏ (kích thước dưới 3cm) và chức năng gan còn tốt, không có xơ gan liên quan. Những bệnh nhân có khối u được phẫu thuật thành công, tỷ lệ sống sót sau 5 năm lên đến 60%.

Ghép gan

Ghép gan là lựa chọn tốt nhất cho những bệnh nhân có khối u nhỏ hơn 5cm và có dấu hiệu của suy gan. Để phòng ngừa, làm sinh thiết hoặc hút tế bào nên tránh ở những bệnh nhân cân nhắc ghép gan.

Hóa tắc động mạch gan (trans-arterial chemoembolization or TACE)

Thủ thuật này cũng tương tự như bơm hóa chất động mạch gan, nhưng trong TACE có bổ sung những hạt gel nhỏ làm tắc mạch sau khi bơm hóa chất. Ưu điểm của phương pháp này là tập hóa chất nồng độ cao và không bị mang đi bởi máu. Bằng cách dựa trên chặn lưu lượng máu đến khối u, TACE cũng gây ra một số thiệt hại cho vùng gan xung quanh, bệnh nhân có thể có đau, sốt, nhiễm trùng, tích tụ chất lỏng.

TS. BS. Đỗ Anh Tú (Trưởng khoa Nội 3, Bệnh viện K T.Ư)

Phẫu thuật thoát vị bẹn thành công cho trẻ suy dinh dưỡng

Mẹ bé cho biết, buổi sáng ở nhà trẻ có biểu hiện quấy khóc, đến buổi tối trẻ quấy khóc nhiều, khi kiểm tra phát hiện bẹn phải của trẻ sưng to. Gia đình vội vàng đưa trẻ đến viện Việt Nam – Thụy Điển Uông Bí khám.

Ngay khi tiếp nhận các bác sĩ đã nhanh chóng tiến hành khám, kiểm tra sức khỏe, làm các xét nghiệm cần thiết và tiến hành hội chẩn liên khoa giữa Khoa Ngoại tổng hợp, khoa Gây mê hồi sức, khoa Nhi. Sau khoảng 1 giờ kể từ khi nhập viện, trẻ nhanh chóng được chuyển tới phòng phẫu thuật phẫu để phẫu thuật cấp cứu điều trị nghẹt bẹn phải.

Sau khoảng 30 phút, ca phẫu thuật diễn ra thành công, sau đó trẻ được thở máy và điều trị tích cực tại đơn vị hồi sức tích cực nhi khoa.

BSCKI. Nguyễn Thị Ngọc Điệp – Trưởng khoa Nhi bệnh viện cho biết, Bệnh viện đã tiếp nhận và điều trị cho nhiều trường hợp trẻ bị thoát vị bẹn đẻ non kèm thể trạng suy dinh dưỡng. Trường hợp của bệnh nhi N.V.Q.B cũng là 1 trường hợp tương tự. Cũng theo bác sĩ Điệp, bệnh nhi B. sau khi tiến hành phẫu thuật, sức khỏe trẻ tiến triển tốt, sau 6 giờ đã được cai máy thở.

Đến hiện tại trẻ tỉnh táo, không nôn, không sốt, bú tốt, vết mổ khô và sẽ được xuất viện trong 1 – 2 ngày tới. Sau khi đó trẻ sẽ tiếp tục được theo dõi tình trạng sức khỏe, thoát vị bẹn bên trái và sẽ có chỉ chỉ định phẫu thuật khi sức khỏe trẻ ổn định.

Bác sĩ của BV Việt Nam Thụy Điển Uông Bí đang thăm hỏi cháu bé

Việc phẫu thuật cho trẻ nhỏ mà đặc biệt là trẻ đẻ non, thể trạng suy dinh dưỡng đã được bệnh viện thực hiện thường quy. Qua đó khẳng định rằng việc gây mê và phẫu thuật cho trẻ nhỏ được bệnh viện thực hiện thành công, từ đó giúp cho các gia đình có trẻ nhỏ mắc bệnh không phải chuyển nên các bệnh viện tuyến trên để điều trị.

Qua đây, các bác sĩ bệnh viện khuyến cáo các gia đình có trẻ nhỏ mà đặc biệt là gia đình có trẻ tiền sử đẻ non cần theo dõi trẻ chặt chẽ, khi trẻ có biểu hiện quấy khóc bất thường, xuất hiện các khồi sưng hoặc u to phần bẹn thì cần nghĩ ngay có thể trẻ đã bị thoát vị bẹn. Cần đưa ngay đến cơ sở y tế gần nhất để các bác sĩ tiến hành thăm khám và có hướng can thiệp kịp thời. Tránh tình trạng bệnh diễn biến phức tạp, ảnh hưởng đến sức khỏe của trẻ.

Nhị Vũ

Biết dấu hiệu sớm suy tim để phòng đột quỵ

Tuy nhiên, có đến 40% trường hợp người suy tim không thể tìm được nguyên nhân cụ thể. Trong khi đó, tỷ lệ tử vong do suy tim lên tới 45% trong tổng số bệnh nhân mới mắc hàng năm. Vì vậy, việc phát hiện sớm và khám sức khỏe định kỳ là vô cùng quan trọng.

Suy tim thường là hậu quả của nhiều bệnh tim gây ra. Đây là trạng thái bệnh lý trong đó cơ tim bị giảm khả năng cung cấp máu theo nhu cầu cơ thể. Bình thường tim có khả năng dự trữ ôxy để đáp ứng nhu cầu của cơ thể trong các thời điểm khác nhau; khi bị suy tim, cơ thể thiếu ôxy nên phát sinh hàng loạt triệu chứng bệnh lý, trong đó phổ biến là khó thở, ho, phù... Suy tim diễn tiến chậm trong nhiều năm, có nhiều biểu hiện giống với một số bệnh về đường hô hấp nên khó chẩn đoán.

Tim suy yếu do đâu?

Các chuyên gia phân chia các loại suy tim thành: suy tim trái, suy tim phải và suy tim toàn thể. Theo đó, tất cả các bệnh làm ứ đọng máu trong thất trái hoặc làm cho thất trái làm việc quá nhiều đều gây suy tim trái như: bệnh hở van hai lá, hở van động mạch chủ, tăng huyết áp động mạch, nhồi máu cơ tim, viêm cơ tim do thấp tim hoặc do nhiễm độc, nhiễm khuẩn, nhất là viêm cơ tim do virut.

Biết dấu hiệu sớm suy tim để phòng đột quỵ

Ngoài ra, các trường hợp cản trở quá trình đẩy máu từ tim phải lên phổi đều gây suy tim phải như: hẹp van hai lá, bệnh phổi mạn tính (hen phế quản, xơ phổi, dính màng phổi, giãn phế quản...), bệnh tim bẩm sinh (hẹp động mạch phổi). Bên cạnh các nguyên nhân trên, suy tim còn là hậu quả của tình trạng rối loạn nhịp tim nhanh kéo dài, mạn tính. Bệnh nhân bị đái tháo đường, người sử dụng hóa chất để điều trị ung thư, bệnh cơ tim do uống quá nhiều rượu... cũng có khả năng bị suy tim.

Bệnh suy tim có nhiều biểu hiện khác nhau, trong đó khó thở có thể là một trong những dấu hiệu phổ biến. Tuy nhiên, theo Viện Tim mạch học Việt Nam, không phải cứ khó thở khi làm việc nặng là bị suy tim bởi đôi khi rất khó có thể phân biệt được chính xác nguyên nhân các dấu hiệu trên là do suy tim hay do bệnh ở phổi hoặc các bệnh hô hấp khác. Ho cũng là một biểu hiện khác của bệnh này. Ho có thể kéo theo khạc ra đờm lẫn máu, ho tăng khi nằm ngủ. Viêm cơ tim, tắc động mạch vành gây suy tim còn khiến người bệnh gặp phải những cơn đau xương ức lan ra cánh tay trái. Mệt mỏi, phù, tiểu đêm cũng là một trong những dấu hiệu quan trọng để chẩn đoán suy tim.

Khác với suy tim trái, khi bị suy tim phải, máu về tim phải khó nên ứ lại ở ngoại biên làm ảnh hưởng đến gan. Ngoài triệu chứng khó thở, người bệnh sẽ có biểu hiện xanh tím do lượng huyết cầu tố khử tăng, môi, lưỡi dễ bị tím, có khi là tím toàn thân.

Chính vì vậy, việc phát hiện và điều trị sớm bệnh tim mạch giúp làm chậm lại diễn tiến của bệnh. Nếu nhận thấy có các dấu hiệu như: đau thắt ngực, khó thở, mệt mỏi, ho, phù, không nên chủ quan nhất là khi bạn đang mắc các bệnh về tim mạch.

Xác định và điều trị suy tim

Nguyên tắc cơ bản trong điều trị suy tim là xác định căn nguyên gây suy tim. Muốn xác định căn nguyên này, các bác sĩ sẽ tiến hành nhiều xét nghiệm để chẩn đoán và đánh giá mức độ nặng của bệnh. Hiện nay, phương pháp siêu âm tim được áp dụng phổ biến, cho phép đo đạc kích thước buồng tim, phát hiện các bệnh lý van tim, đánh giá sức co bóp cơ tim.

Ngoài ra, suy tim còn có thể được xác định bằng chụp xạ hình cơ tim, chụp cản quang buồng tim... Bằng cách đo nồng độ chất NT-proBNP trong máu, các bác sĩ không những chẩn đoán chính xác suy tim mà còn giúp phát hiện sớm suy tim ngay cả khi chưa có triệu chứng rõ ràng.

Điều trị suy tim phải bắt đầu từ giai đoạn sớm vì khi tổn thương cơ tim đã hình thành ở giai đoạn nặng thì khó có thể cứu vãn. Khi đã xác định rõ nguyên nhân dẫn đến suy tim, các bác sĩ sẽ tiến hành mổ hoặc sửa van tim hay dùng thuốc để ngăn chặn diễn tiến của bệnh theo chiều hướng xấu.

Biết dấu hiệu sớm suy tim để phòng đột quỵBác sĩ khám bệnh nhân bị đau tim.

Lối sống cho người suy tim

Suy tim là căn bệnh nguy hiểm, vì vậy người bệnh cần chú ý giữ gìn sức khỏe, đồng thời có chế độ dinh dưỡng hợp lý để không ảnh hưởng tới tình trạng của bệnh: Ăn chế độ giảm muối (giảm mặn, không mì chính...) vì ăn nhiều muối sẽ gây giữ nước và phù. Nên tránh mì chính, bột ngọt (là một dạng muối), các đồ chế biến sẵn. Lựa chọn các thức ăn có ít muối. Lượng muối trung bình một ngày không nên quá 2g.

Một số bệnh nhân nên hạn chế nước (uống và ăn) nhất là khi bệnh nặng.

Giảm cân nếu quá cân.

Không uống rượu nhất là đối với bệnh nhân suy tim do rượu.

Hoạt động thể lực phù hợp, tránh gây quá tải cho tim, nên theo lời khuyên của bác sĩ. Không nên chỉ ngồi một chỗ vì suy tim làm ứ máu, nếu không vận động sẽ khiến dễ bị tắc mạch hơn. Tuy nhiên, không giống như các cơ bắp khác, hoạt động nhiều không làm tim khỏe hơn mà có thể còn có hại nếu quá mức. Tốt nhất là tuân thủ chế độ hoạt động thể lực theo lời khuyên của bác sĩ. Biện pháp dễ làm nhất và có hiệu quả là đi bộ, bắt đầu từ từ và tăng dần từng tí một. Dừng ngay nếu khó thở, đau ngực hoặc hoa mắt.

Theo dõi cân nặng hàng ngày, tăng cân là dấu hiệu sớm cho biết tình trạng ứ nước trong cơ thể, suy tim nặng lên.

Dành thời gian để nghỉ ngơi, nhất là khi mệt.

Không hút thuốc lá.

Uống thuốc đều theo đơn. Không tự ý ngừng thuốc hoặc thay đổi liều lượng nếu không có chỉ dẫn của bác sĩ. Nên uống thuốc vào các giờ nhất định tùy theo công việc hay hoạt động để tránh quên thuốc. Cần nhớ các thuốc chữa suy tim không phải là thuốc bổ, không thể tự thay đổi liều. Rất nhiều người tự ý ngừng một loại thuốc chỉ vì khó uống (như gói muối kali) hoặc tự tăng liều vì coi đó là thuốc trợ tim (như digoxin) mà không biết rằng bác sĩ đã phối hợp các thuốc với liều tối ưu để tránh biến chứng. Nhiều người đã tử vong tại viện vì những sự tự ý như vậy.

Đi khám ngay nếu có các biểu hiện bất thường hoặc khi các dấu hiệu suy tim nặng lên. Đối với suy tim, điều trị càng sớm càng dễ dàng và hiệu quả.

BS. Mạnh Hùng

Dời ngày “đèn đỏ” để đi du lịch

Nguyễn Thị Ngọc Linh (linhngoc@gmai.com)

Hiện tượng kinh nguyệt là do giảm đột ngột nồng độ nội tiết tố estrogen và progesteron trong máu. Muốn kinh nguyệt chưa xuất hiện, bạn cần duy trì nồng độ estrogen và progesteron trong máu với chỉ số nhất định để không làm phóng thích prostaglandin và không có hiện tượng co thắt mạch máu ở nội mạc tử cung. Bạn có thể uống thuốc tránh thai để thực hiện được điều này. Tùy theo ngày thấy kinh của bạn sắp tới hay đã qua. Nếu sắp tới thì khi thấy kinh ngày đầu tiên ta bắt đầu uống thuốc tránh thai (loại thuốc uống hằng ngày 21 viên, mỗi ngày uống 1 viên) hết vỉ đó ta không nghỉ mà uống luôn sang vỉ khác. Trường hợp tháng này đã qua ngày thấy kinh thì ta có thể vẫn dùng loại 21 viên và uống viên đầu tiên vào ngày cách ngày thấy kinh tháng tới 2 tuần. Trường hợp của bạn chỉ còn 3 ngày nữa thấy kinh mà bạn muốn dời ngày lại thì bạn nên tham khảo ý kiến bác sĩ. Sau khi đã có tìm hiểu tình trạng sức khỏe cụ thể, bác sĩ sẽ tư vấn cho bạn loại thuốc tránh thai phù hợp.

BS. Nguyễn Kim Dung

Mối liên quan giữa thiếu ngủ và béo phì ở trẻ em

thiếu ngủ gây béo phì ở trẻ

Các phát hiện cho thấy trẻ em và thanh thiếu niên ngủ ít hơn thời gian được khuyến nghị có nguy cơ cao hơn bị thừa cân.

Nhìn chung, chúng có nguy cơ bị thừa cân hoặc béo phì cao hơn 58%, một yếu tố nguy cơ phổ biến của nhiều bệnh chuyển hóa tim mạch.

Michelle Miller từ ĐH Warwick ở Conventry, Anh cho biết: “Thừa cân có thể dẫn tới bệnh tim mạch và tiểu đường týp 2 ở trẻ”. Các kết quả của nghiên cứu chỉ ra rằng giấc ngủ có thể là một yếu tố nguy cơ quan trọng gây béo phì trong tương lai ở trẻ.

Trong nghiên cứu được công bố trên tờ Sleep, nhóm nghiên cứu đã báo cáo kết quả của 42 nghiên cứu về trẻ sơ sinh, trẻ nhỏ và thanh thiếu niên tuổi từ 0 tới 18 bao gồm 75.499 người tham gia.

Miller cho biết: "Kết quả chỉ ra mối quan hệ thống nhất giữa mọi lứa tuổi chỉ ra rằng nguy cơ này tăng ở cả trẻ nhỏ và trẻ lớn hơn”.

Tỷ lệ béo phì đã gia tăng trên toàn thế giới và Tổ chức Y tế Thế giới đã tuyên bố nó là một đại dịch toàn cầu.

Theo các khuyến cáo gần đây của Hội Giấc ngủ Quốc gia Mỹ trẻ từ 4 tới 11 tháng cần ngủ 12 tới 15 giờ mỗi đêm, trẻ lớn hơn (từ 1 tới 2 tuổi) cần ngủ 11 tới 14 tiếng.

Trẻ ở trường mầm non (3-5 tuổi) nên ngủ 10-13 tiếng, trong khi trẻ ở độ tuổi đi học (3 tới 13 tuổi) cần ngủ 9 tới 11 tiếng. Thanh thiếu niên (14-17 tuổi) được khuyên ngủ 8 tới 10 tiếng.

BS Thu Vân

(theo Univadis/THS)

Xử lý tiêu chảy cấp

Thức ăn, nước uống nhiễm khuẩn, ôi thiu, thói quen ăn uống mất vệ sinh... là nguyên nhân khiến tỷ lệ tiêu chảy cấp ngày càng tăng cao. Tiêu chảy được định nghĩa là đi ngoài phân lỏng hoặc nước trên 3 lần trong 24 giờ. Tiêu chảy cấp là tiêu chảy kéo dài không quá 14 ngày.

Nguyên nhân gây tiêu chảy cấp

Nguyên nhân thường gặp nhất là do nhiễm trùng, đây cũng là nguyên nhân gây suy dinh dưỡng và tử vong cao ở trẻ em. Nguyên nhân do kém vệ sinh, thiếu nước sạch, ăn ở đông đúc chật chội... Hầu hết nhiễm trùng gây tiêu chảy cấp lây truyền qua đường phân– tay– miệng, qua nước và thức ăn nhiễm bẩn. Có nhiều loại vi khuẩn gây nên bệnh lý tiêu chảy cấp, tùy theo cơ chế gây bệnh khác nhau mà có các nhóm:

-Nhiễm virus: Thường gặp là Rotavirus, Adenovirus, Norwark…

- Nhiễm vi khuẩn: Thường gặp ở các nước đang phát triển, đỉnh mắc bệnh vào các tháng mùa hè. Vi khuẩn gây bệnh gồm Campylobacter jejuni, Salmonella, Shilgella (gây bệnh lỵ), Yersinia, E.coli, Vibrio Cholera (gây bệnh tả).

- Nhiễm ký sinh trùng: Giardia, Cryptosporidium, Entamoeba histolitica…

Ngoài nguyên nhân nhiễm trùng, còn rất nhiều nguyên nhân khác có thể dẫn đến tiêu chảy cấp như do thuốc (nhất là các thuốc kháng acid, ức chế bơm proton, thuốc hạ lipid máu, thuốc kháng sinh như erythromycin, ampicillin…), do hóa chất (nhất là asen, phospho hữu cơ, nấm độc…), sau hóa trị liệu, do dị ứng, do thức ăn…

Xử lý tiêu chảy cấpVirus gây bệnh tiêu chảy.

Biểu hiện lâm sàng

Biểu hiện lâm sàng ngoài việc tiêu chảy cấp, thường có kèm theo nôn mửa, đau bụng, sốt và các biểu hiện toàn thân khác tùy theo từng nguyên nhân.

Tiêu chảy: Từ phân nát không thành khuôn cho đến phân lỏng nước. Số lần đại tiện có thể từ vài lần trong ngày cho tới hàng chục lần (20- 30 phút/lần). Đôi khi tiêu chảy xuất hiện sau bữa ăn bị nhiễm khuẩn, khoảng thời gian giữa bữa ăn và khởi phát tiêu chảy gợi ý nguyên nhân gây bệnh: dưới 6 giờ thường do nhiễm độc tố của S.aureus hoặc B.cereus; từ 6 – 24 giờ thường do độc tố C. perfingens và B.cereus; 16 – 72 giờ thường do nhiễm khuẩn. Phải loại trừ các nguyên nhân không phải nhiễm trùng gây tiêu chảy cấp và tiêu chảy do thẩm thấu như các thuốc (thuốc nhuận tràng, thuốc trung hoà acid dịch vị có chứa magie hoặc calci, colchicine, hoặc kẹo có chứa sorbitol).

Nôn: Có thể là triệu chứng kèm theo của tiêu chảy, nhưng một số bệnh nhân tiêu chảy cấp thì triệu chứng nôn lại nổi trội hơn nhiều so với tiêu chảy. Ở các bệnh nhân này nên lưu ý nguyên nhân nhiễm độc tố vi khuẩn hoặc viêm dạ dày ruột do nhiễm virus. Tiêu chảy do nhiễm độc tố vi khuẩn thường khởi phát tiêu chảy từ 2- 7 giờ sau ăn thức ăn bị nhiễm khuẩn, biểu hiện nôn là triệu chứng chính, tiêu chảy thường không nặng, đôi khi kèm đau quặn bụng và không sốt.

Dấu hiệu mất nước: Rất quan trọng, bao gồm khát nước, giảm số lượng nước tiểu, tình trạng khô niêm mạc mắt, miệng, mắt trũng, mất sự đàn hồi của da biểu hiện bằng dấu hiệu nếp véo da, mạch nhanh, tụt huyết áp tư thế hoặc nặng hơn là tụt huyết áp, mệt xỉu. Đối với người lớn, tình trạng mất nước nhẹ thường khó phát hiện hơn so với trẻ em. Mức độ mất nước đôi khi không tương xứng với độ nặng của tiêu chảy.

Cần đưa bệnh nhân đi khám ngay khi có các dấu hiệu: Sốt trên 38,5 độ C, đi ngoài trên 6 lần/24 giờ; hội chứng lỵ; đau bụng nhiều, đặc biệt ở bệnh nhân trên 50 tuổi; có dấu hiệu mất nước; mới nằm viện nội trú, mới sử dụng kháng sinh; triệu chứng nặng lên sau 48 giờ; bệnh nhân nguy cơ cao: Người lớn tuổi (> 65) vì thường kèm giảm nhận thức dẫn đến phát hiện và xác định triệu chứng thường ở giai đoạn muộn của bệnh, bệnh nhân suy giảm miễn dịch (nhiễm HIV, sử dụng thuốc ức chế miễn dịch và steroid, hoá trị liệu điều trị ung thư), bệnh nhân có bệnh lý mạn tính (đái tháo đường, bệnh tim phổi mạn tính, xơ gan, suy thận…).

Điều trị và dự phòng

Chủ yếu trong quá trình điều trị là bổ sung nhanh và kịp thời lượng nước và điện giải đã mất bằng dung dịch oresol. Tích cực chống nhiễm toan và trụy mạch.

Bên cạnh đó việc sử dụng kháng sinh sớm hết sức quan trọng, nó có tác dụng làm giảm khối lượng và thời gian tiêu chảy, rút ngắn thời gian thải phẩy khuẩn tả trong phân, chỉ dùng kháng sinh đường uống, hiện nay tốt là dùng nhóm quinolon thế hệ 2. Cần chú ý, trong khu vực có dịch, tất cả các trường hợp tiêu chảy phải được xử lý như tả.

Xử lý tiêu chảy cấp

Quan trọng nhất trong phòng bệnh là đảm bảo vệ sinh môi trường, an toàn vệ sinh thực phẩm, xử lý hợp vệ sinh rác và chất thải; cần ăn chín uống sôi, rửa tay sạch sẽ trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh, ý thức giữ gìn và đảm bảo vệ sinh môi trường.

BS. Đăng Hưng

Phòng bệnh khi đi du lịch

Mùa hè cũng là mùa du lịch và nghỉ dưỡng. Dù là đi du lịch nghỉ dưỡng nhưng để giữ gìn sức khỏe cho hoạt động du lịch là hết sức quan trọng, giúp cơ thể thích ứng với sự thay đổi của môi trường, khí hậu ngày hè, hoàn cảnh và điều kiện sống, đồng thời có thể tham gia các hoạt động thể lực như đi bộ, leo núi, tắm biển, bơi thuyền... Bài viết dưới đây sẽ giúp các bạn cần lưu ý những gì khi đi du lịch để bảo vệ sức khỏe phòng ngừa bệnh tật và sự tái phát của các bệnh mạn tính.

Những yếu tố ảnh hưởng đến sức khỏe

Sự thay đổi đột ngột về môi trường tự nhiên, trong đó phải kể đến các yếu tố như địa lý, khí hậu, thủy thổ... Những yếu tố này dù có thuận lợi cũng làm cho một số chức năng sinh lý của cơ thể tạm thời bị rối loạn. Ví như dù là mùa hè, người miền Nam ra miền Bắc sẽ cảm thấy rất khó chịu, dễ đau nhức xương khớp vì không khí ẩm thấp; người ở miền xuôi lên vùng cao thường có cảm giác mệt mỏi, nặng đầu, mất ngủ... vì nồng độ oxy trong không khí thấp hơn; mùa đông đi từ miền Bắc vào miền Nam hoặc ngược lại, cơ thể phải chịu sự thay đổi rất lớn của nhiệt độ…

Thực phẩm và cách chế biến món ăn ở mỗi vùng mỗi khác khiến cho du khách ăn uống không ngon miệng, thậm chí có thể phát sinh rối loạn tiêu hóa, đặc biệt ở những người vốn có những bệnh lý dạ dày, ruột mạn tính...

Sự thay đổi và điều kiện sinh hoạt hạn chế, thực phẩm và món ăn không hợp khẩu vị, phương tiện giao thông di chuyển liên tục, nhịp điệu sinh hoạt bị đảo lộn... đều ít nhiều ảnh hưởng đến sức khỏe và dễ phát sinh tình trạng rối loạn giấc ngủ, chán ăn, rối loạn tiêu hóa, căng thẳng mệt mỏi..., đặc biệt là ở những người vốn mắc các bệnh lý thần kinh, tiêu hóa mạn tính.

Khi đi du lịch, nên tham gia các hoạt động phù hợp với sức khỏe.

Khi đi du lịch, nên tham gia các hoạt động phù hợp với sức khỏe.

Bệnh thường gặp khi du lịch

Chứng say tàu xe, hay xảy ra đối với phụ nữ và trẻ em, nhẹ thì buồn nôn, hoa mắt chóng mặt, rạo rực khó chịu; nặng thì nôn nhiều, sắc mặt nhợt nhạt, vã mồ hôi lạnh, thậm chí có thể tụt huyết áp, loạn nhịp tim...

Tình trạng rối loạn giấc ngủ thường xảy ra đối với người cao tuổi, chủ yếu là do thay đổi chỗ ngủ, giờ giấc sinh hoạt bị đảo lộn, trạng thái mệt mỏi và căng thẳng thần kinh do mất cân bằng giữa hai quá trình hưng phấn và ức chế, các chứng đau khớp, đau lưng... do thay đổi môi trường tự nhiên và vận động thể lực quá mức...

Bệnh đường tiêu hóa như đầy bụng, chậm tiêu, buồn nôn, tiêu chảy hoặc táo bón do nhiều nguyên nhân khác nhau như dinh dưỡng không cân đối, nhiễm trùng, nhiễm độc thức ăn, viêm dạ dày cấp tính, đợt cấp của viêm đại tràng mạn tính… do điều kiện an toàn vệ sinh thực phẩm, giờ giấc ăn uống thay đổi, thất thường...

Chứng cảm mạo xảy ra do cơ thể mệt mỏi, sức đề kháng suy giảm, lạm dụng đồ uống lạnh làm giảm sức chống đỡ của niêm mạc mũi họng tạo điều kiện thuận lợi cho các tác nhân gây bệnh. Hơn nữa, các khu du lịch chỉ cần một vài người bị cảm cúm là có thể lây lan rất nhanh sang những người khác. Biểu hiện chủ yếu là ngây ngấy sốt, rát họng, sổ mũi, hắt hơi, đau đầu…

Ngoài ra, khi du lịch ở những vùng sơn dã, bạn còn có thể bị các loài côn trùng gây thương tích, có khi rất nguy hiểm như nhện độc cắn, muỗi và ong đốt... Các chứng bệnh có thể gặp như dị ứng, đau buốt tai khi đi máy bay, tê tay và viêm tiết niệu... Điều cần nói thêm là khi du lịch cũng cần phải đề phòng sự tái phát của các bệnh lý mạn tính, trong đó đặc biệt chú ý bệnh hen suyễn, tăng huyết áp, cơn đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não, rối loạn nhịp tim.

Lời khuyên của thầy thuốc

Không nên mang theo thức ăn hoặc chỉ mang rất ít vì điều kiện bảo quản dễ làm thức ăn chóng ôi thiu, biến chất.

Ăn uống đảm bảo vệ sinh, đủ dinh dưỡng, dễ tiêu, uống đủ nước. Không dùng nhiều đồ ăn sống lạnh và cố gắng ăn uống đúng bữa, đúng giờ giữ cho hệ tiêu hóa khỏe mạnh.

Nếu du lịch dài ngày và ở những nơi hoang vu, thưa dân, điều kiện dịch vụ hạn hẹp thì nên mang theo một số thực phẩm cần thiết. Nên trọng dụng nước khoáng và nước trà xanh vì cả hai đều có tác dụng thanh nhiệt, kích thích tiêu hóa, nước khoáng cung cấp các chất điện giải và làm kiềm hóa nước tiểu, nước trà còn có tác dụng làm cho đầu óc tỉnh táo. Thận trọng khi sử dụng đồ ăn, thức uống lạ, cần thay đổi khẩu phần ăn dần dần, ăn ít một để cơ thể thích nghi với tập quán ăn uống tại nơi du lịch.

Lựa chọn nơi đến du ngoạn sao cho phù hợp sức khỏe, tuổi tác…, tránh phiêu lưu mạo hiểm. Tốt nhất nên tìm đến những nơi có không khí trong lành, cảnh sắc tươi đẹp, yên tĩnh thoáng mát, không khí ít bị ô nhiễm, cảnh vật khoáng đạt, dịch vụ du lịch tốt… có lợi cho sức khỏe.

Tùy theo hành trình xa hay gần, tình hình thời tiết, hoàn cảnh, sức khỏe... mà đem theo thuốc dự phòng, chủ động chống nắng hoặc chống rét, gió lùa, phòng chống muỗi và côn trùng đốt. Mang theo những vật dụng y tế thông dụng như: bông băng, cồn y tế, băng dính; thuốc chống cảm cúm và trị tiêu chảy, thuốc chống say tàu xe, thuốc giảm đau hạ nhiệt và kháng sinh thường dùng, dầu gió, trà gừng..., các thuốc đang điều trị bệnh mạn tính theo đơn của thầy thuốc, đặc biệt là các thuốc tim mạch, các thuốc dùng cho người có bệnh cơ địa như thuốc hen, thuốc chống dị ứng...

ThS. Hoàng Khánh Toàn

Đề phòng viêm tai do bơi

Viêm tai do bơi lội thường là do nhiễm vi khuẩn như Streptococcus, Staphylococcus hoặc vi nấm. Viêm tai thường xảy ra khi tiếp xúc với nước quá mức hoặc để nước ứ đọng trong tai. Bản thân tai người có cơ chế tự bảo vệ khỏi nhiễm khuẩn, nhưng cơ chế này chỉ hoạt động tốt khi chúng được giữ khô ráo. Vi khuẩn, vi nấm dễ dàng tích tụ trong các bể bơi hay các ao hồ nước ngọt. Khi bơi nước có thể vào tai và lưu lại đó, nguy cơ nhiễm khuẩn càng lớn hơn khi ống tai có quá nhiều dáy tai. Trong môi trường ẩm ướt này, các tác nhân gây bệnh có thể phát triển và gây viêm tai. Những người mới tập bơi, nhất là trẻ em có thể bị nước tràn vào mũi họng, lọt vào tai giữa gây nguy cơ nhiễm khuẩn, nhiễm vi nấm.

Hình giải phẫu tai.

Hình giải phẫu tai.

Khi tai bị viêm có dấu hiệu gì?

Viêm tai ngoài: Đây là tình trạng viêm lớp da bao phủ ống tai ngoài và là loại viêm tai thường gặp nhất khi đi bơi. Viêm tai ngoài có thể ở dạng viêm tai ngoài khu trú, khi nhiễm khuẩn nang lông trong ống tai hoặc viêm tai ngoài lan tỏa. Bệnh nhân sẽ có cảm giác đau dữ dội trong ống tai, đau tăng khi ấn vào vùng trước tai hoặc kéo vành tai, ngứa tai, đau nhẹ, tai rỉ dịch. Một số trường hợp ống tai sưng nề, đỏ, đau nhiều, ở mức độ nặng có kèm sốt và nổi hạch. Sức nghe có thể bị ảnh hưởng nhẹ khi ống tai bị hẹp do phù nề hoặc bị ứ đọng chất nhầy mủ. Có thể thấy đau và khó khăn khi há miệng. Dạng đặc biệt viêm tai ngoài do virut Herpes zoster còn gọi là zona tai, gây đau rát dữ dội kèm nổi những mụn nước (dạng bỏng) trong ống tai, vành tai, vùng trước và sau tai. Thể nặng bệnh nhân có thể bị liệt mặt, nghe kém tiếp nhận cùng bên và rối loạn thăng bằng.

Viêm tai giữa: Dấu hiệu của viêm tai giữa thường nhanh chóng. Khởi đầu là đau. Ở trẻ em đau nhất là khi kéo tai hoặc nằm xuống khiến chúng khó ngủ hơn bình thường, trẻ nhỏ thì quấy khóc nhiều hơn bình thường, khó nghe hoặc phản ứng với âm thanh, mất cân bằng, nhức đầu, sốt khoảng 380C hoặc cao hơn, có chất lỏng thoát ra từ tai, chán ăn, nôn mửa, tiêu chảy. Ở người lớn có thể thấy đau tai, dịch chảy từ trong tai, giảm thính giác, đau họng.

Điều trị cần sớm và dứt điểm

Nói chung, viêm tai ngoài là bệnh lý thường gặp, điều trị không khó. Điều trị bằng cách rửa tai, dùng thuốc nhỏ tai tại chỗ chứa corticoid, kháng sinh hoặc kháng nấm. Sử dụng kết hợp kháng sinh, thuốc giảm đau, kháng viêm đường uống trong trường hợp viêm cấp nặng. Dạng đặc biệt viêm tai ngoài do virut Herpes zoster cần điều trị sớm bằng thuốc kháng virut (acyclovir) có thể làm giảm diễn tiến nặng của bệnh, giảm khả năng bị liệt mặt và điếc vĩnh viễn.

Viêm tai giữa cấp tính thường nguy hiểm hơn, bệnh diễn biến trong thời gian dưới 3 tuần. Nếu không được điều trị kịp thời và đúng phương pháp thì bệnh thường dẫn tới biến chứng nguy hiểm như: viêm tai giữa mạn tính, viêm tai xương chũm, viêm màng não, áp-xe não, viêm tắc tĩnh mạch bên, liệt dây VII ngoại vi. Điều trị viêm tai giữa cấp tính tùy theo là viêm tai giữa cấp tính xuất tiết dịch thấm, viêm tai giữa cấp tính sung huyết hay viêm tai giữa cấp tính có mủ. Và tùy theo giai đoạn bệnh, thực trạng của người bệnh có kèm theo viêm họng, rối loạn tiêu hóa...

Phòng ngừa viêm tai khi đi bơi

Để phòng tránh viêm tai khi đi bơi, nên tránh nước tràn vào tai bằng cách dùng nút tai, mũ bơi. Để tránh cho tai bị ẩm ướt, sau khi bơi làm sạch tai ngoài bằng khăn bông, nghiêng đầu, kéo thùy tai cho nước trong tai (nếu có) chảy ra ngoài. Có thể làm khô ống tai ngoài bằng cách sử dụng luồng hơi nóng từ máy sấy tóc ở cường độ thấp hoặc sấy lạnh (cần giữ khoảng cách giữa máy sấy tóc và đầu trong khoảng 30cm, máy sấy tóc được đặt từ phía sau thổi luồng hơi ra phía trước và thường xuyên di chuyển, không nên giữ yên một chỗ). Không nên ngoáy tai tích cực bằng tăm bông vì dễ gây tổn hại lớp da ống tai, đồng thời ngoáy tai không đúng cách có thể đẩy ráy tai và chất bẩn vào sâu hơn trong tai, tích tụ lại tạo điều kiện cho vi khuẩn và nấm phát triển. Cũng không nên ngoáy tai bằng dụng cụ mất vệ sinh, sắc nhọn gây trầy xước ống tai. Tránh nước bể bơi tràn vào mũi, miệng. Vệ sinh miệng, hầu họng, xoang bằng nước muối sinh lý sau khi đi bơi.

Các bệnh lý toàn thân như tiểu đường, vẩy nến, chàm, dị ứng, viêm da tiết bã cũng gây nguy cơ viêm tai ngoài hoặc gây biến chứng nặng hơn khi xảy ra viêm tai. Vì thế nên điều trị tích cực các bệnh này. Với một số người, các chất như xịt tóc hoặc thuốc nhuộm tóc có thể gây kích ứng tai, làm tăng nguy cơ viêm tai. Để ngăn chặn điều này, trước đó nhẹ nhàng đặt nút bông vào tai, nhưng không đẩy chúng sâu trong tai.

BS. Vũ Nam

6 bệnh ngoài da hay gặp ở trẻ mùa nắng nóng

Chốc lở

Chốc lở là tình trạng nhiễm khuẩn nông ở da do vi khuẩn gây ra. Bệnh xuất hiện với những bóng nước hình tròn, dẹp, sau vài giờ, bóng nước đục dần, có mủ rồi vỡ, đóng vảy màu vàng. Bệnh rất dễ lây lan và thường lây trực tiếp từ vùng da bệnh đến vùng da lành trên cùng một trẻ hoặc từ trẻ này sang trẻ khác, vì vậy, bệnh còn được gọi là “chốc lây”. 90% trường hợp chốc là các bé tuổi nhà trẻ, mẫu giáo.

Chốc được phân loại theo hình thái thương tổn: chốc có bọng nước và chốc không có bọng nước. Chốc có bọng nước điển hình thường do tụ cầu gây ra. Tổn thương cơ bản là dát đỏ kích thước từ 0,5-1cm, nhanh chóng tạo thành bọng nước trên đó. Chốc không có bọng nước thường do liên cầu tan huyết nhóm A gây ra. Thương tổn ban đầu là các mụn nước, mụn mủ nhưng dập trợt rất nhanh trên nền da đỏ, tiết dịch ẩm ướt nên không có bọng nước điển hình.

Trẻ em bị bệnh không sốt nhưng thường bị sưng hạch ở quanh vùng có vết chốc. Vết chốc lở rất dễ lây lan sang các vùng da lành khác nếu bị dây dịch của vết chốc. Nếu mẹ không để ý và kịp thời chữa cho trẻ có thể dẫn đến bệnh viêm cầu thận. Viêm cầu thận xảy ra sau khi phát chốc lở khoảng 2 tuần. Triệu chứng gồm: phù mặt, nhất là phù mi mắt, đi tiểu ít, có máu trong nước tiểu, tăng huyết áp, cứng khớp và đau khớp.

Rôm sảy

Rôm sảy rất phổ biến ở trẻ em trong mùa hè, nhất là trẻ dưới 3 tuổi. Nguyên nhân chính là trong thời tiết nóng nực, mồ hôi trẻ tiết nhiều không thoát ra được hết, ứ đọng trong ống bài tiết. Miệng ống dễ bị bụi, ghét bít kín khiến làn da nổi lên nhiều sẩn nhỏ lấm tấm màu hồng, mọc thành từng đám, có khi dày đặc. Càng ở những vùng mồ hôi tiết ra nhiều như trán, cổ, lưng, ngực, các nếp gấp của cơ thể... càng có nhiều rôm.

6 bệnh ngoài da hay gặp ở trẻ mùa nắng nóng

Chàm sữa

Thường gặp ở trẻ sau 3 tháng tuổi. Biểu hiện bệnh là những mụn nhỏ li ti xuất hiện ở hai bên má rồi lan đến cằm và trán. Chúng nhanh chóng vỡ ra khiến cho da trở nên đỏ và bị rớm dịch. Nếu không giữ gìn vệ sinh sạch sẽ, trẻ rất dễ bị nhiễm khuẩn, những vết vỡ sẽ bị đóng vảy, da trẻ đỏ nhiều hơn, trẻ thấy ngứa ngáy khó chịu. Bệnh có thể tái đi tái lại nhiều lần, có người cho rằng bệnh nổi theo tuần trăng. Nguyên nhân gây chàm sữa ở trẻ em khá phức tạp và khó xác định. Có nhiều ý kiến cho rằng yếu tố di truyền đóng vai trò quan trọng trong bệnh này. Bệnh không nguy hiểm, đến khoảng 2 tuổi, bệnh có thể tự biến mất mà không để lại dấu vết gì.

Mụn nhọt

Khác với rôm sảy, mụn, nhọt là do vi khuẩn gây ra. Từ những nốt rôm sảy không được vệ sinh cẩn thận, vi khuẩn sẽ gây bệnh tạo thành mụn, nhọt. Biểu hiện ban đầu là đỏ sưng rồi nóng gây đau nhức, dần dần mềm vỡ ra chảy mủ và thành sẹo. Mụn nhọt có thể mọc ở nhiều nơi trên cơ thể, đau nhức khiến trẻ quấy khóc, kém ăn kém ngủ. Những trẻ cơ thể suy yếu, không đủ sức chống đỡ với vi khuẩn có thể bị nhọt liên tiếp; nhọt này vừa khỏi nhọt khác lại mọc lên. Nhọt trên đầu thường do tụ cầu khuẩn (hay gặp nhất là tụ cầu vàng), có thể xuất hiện một hoặc nhiều cái, mọc riêng lẻ hoặc từng chùm phụ thuộc vi khuẩn gây bệnh. Tùy theo tổn thương, mụn, nhọt sẽ có nhiều kích cỡ khác nhau: to bằng hạt chanh, hạt bắp, trái chanh hoặc có thể bằng... trái táo xanh (áp-xe nguyên một khối cơ). Khi cơ thể trẻ đề kháng tốt, những vi khuẩn chỉ khu trú trong mụn, nhọt; nhưng nếu sức đề kháng không tốt, vi khuẩn sẽ đi vào máu, gây nhiễm trùng huyết. Lúc đó, trẻ sẽ có biểu hiện sốt cao 39 - 400C. Lúc này, nếu không được xử lý kịp thời, tình trạng nhiễm khuẩn, nhiễm độc bùng phát, trẻ còn có thể bị sốc do độc tố vi khuẩn. Không ít trường hợp trẻ bị nhiễm trùng huyết, sau đó vi khuẩn đi vào màng não. Nếu phát hiện và điều trị trễ, trẻ có thể bị các biến chứng như điếc, viêm màng não, viêm phổi, áp-xe phổi...

Bệnh tay - chân - miệng

Bệnh tay - chân - miệng thường gặp ở trẻ dưới 5 tuổi. Bệnh thường do virut đường ruột Coxsackieviruses A16 và Enterovirus 71 gây ra. Bệnh tay - chân - miệng ở trẻ có thể lây từ người này sang người khác qua tiếp xúc trực tiếp với dịch mũi, họng, nước bọt từ trẻ bệnh sang trẻ lành. Đặc trưng của bệnh là hiện tượng sốt, đau họng, nổi ban có bọng nước. Trẻ nhỏ thường đau khóc, bỏ bú, lúc này miệng trẻ có những vết lở miệng, xuất hiện nhiều ở vòm miệng, môi trong, lợi, lưỡi..., sau đó xuất hiện những vết phát ban dạng phỏng nước hoặc vết nổi cộm trên da ở lòng bàn tay, lòng bàn chân… Nếu trẻ sốt hơn 39 độ C và có những triệu chứng khác như bứt rứt, khó ngủ, quấy khóc hoặc ngủ li bì, thỉnh thoảng giật mình và giơ hai tay lên thì nên nghĩ đến tình trạng biến chứng ở trẻ và cần đưa đến bệnh viện kịp thời. Nếu để trễ từ 6 - 12 tiếng, bệnh có thể trở nặng, trẻ lừ đừ, run chi, trợn mắt, rung giật cơ, tim nhanh, mạch nhanh, thở nhanh và có thể gây nên nhiều biến chứng nguy hiểm như viêm não, viêm cơ tim, phù phổi cấp dẫn đến tử vong.

6 bệnh ngoài da hay gặp ở trẻ mùa nắng nóngTay - chân - miệng là bệnh mà trẻ hay mắc phải trong mùa hè.

Phát hiện bệnh sớm để có biện pháp can thiệp kịp thời thì trẻ dù có biến chứng nặng cũng có thể cứu được và không có di chứng nặng nề nào cho sự phát triển về sau.

Bệnh ngoài da cho trẻ

Vào mùa nắng nóng, bé dễ đổ mồ hôi. Do vậy, nên chú ý chuẩn bị các loại khăn bông vải mềm để giúp bé thấm mồ hôi. Nên tắm cho bé thường xuyên hơn so với mùa lạnh nhưng không nên tắm quá nhiều lần. Nên cho bé tắm bằng nước ấm và sau khi tắm xong cần lau khô thật nhanh và thật kỹ cho bé. Cần giữ cho da trẻ luôn thoáng mát, cho trẻ mặc những loại quần áo làm bằng chất liệu cotton, có khả năng thấm hút mồ hôi tốt, luôn để trẻ ở nơi thoáng mát, tránh nơi nóng nực, ngột ngạt và bí gió. Ngoài ra, cần thường xuyên cho bé uống nước để đảm bảo lượng nước cung cấp đủ cho cơ thể. Tăng cường cho bé ăn thêm các loại trái cây có tác dụng làm mát cơ thể. Theo dõi các triệu chứng và kiểm tra da của bé thật cẩn thận. Không nên xem thường bất cứ dấu hiệu nhỏ nào. Khi thấy có những dấu hiệu đáng ngờ khó nhận biết cần đưa trẻ đi khám kịp thời.

BS. Lê Anh

Dùng bỉm cho trẻ thế nào để không gây hại?

Thông tin cơ quan chức năng đã triệt phá một cơ sở buôn bán bỉm trẻ em giả với số lượng rất lớn, mua bỉm trôi nổi đóng giả nhãn hiệu uy tín để bán kiếm lời khiến nhiều người tiêu dùng lo ngại.

Bỉm kém chất lượng gây loét da, tổn thương bộ phận sinh dục của trẻ

Theo tìm hiểu của phóng viên, loại bỉm, tã giấy trần cũng được bán khá nhiều, nhất là ở vùng quê. Đáng nói loại bỉm được đóng gói bằng túi nilon trong suốt không có một dòng thông tin về nhà sản xuất, tiêu chuẩn chất lượng mà chỉ ghi ngày sản xuất, hạn dùng khá sơ sài. Giá chỉ bằng 1/3 hàng các nhãn hiệu. Để tiết kiệm chi phí, nhiều cha mẹ cũng sẵn sàng mua loại này dùng cho con.

ThS.BS. Trần Thu Nguyệt, Viện Y học ứng dụng Việt Nam

ThS.BS. Trần Thu Nguyệt, Viện Y học ứng dụng Việt Nam

ThS.BS. Trần Thu Nguyệt, Viện Y học ứng dụng Việt Nam cho biết: Các loại bỉm nhái, kém chất lượng thường có độ thấm hút kém, không đạt tiêu chuẩn khử trùng cũng như tiêu chuẩn các vật liệu làm nên bỉm. Độ thấm hút kém sẽ khiến khả năng thấm nước tiểu kém, các chất bẩn dễ ngấm ngược lại da của bé, gây viêm nhiễm cho vùng da và cơ quan sinh dục của bé. Bỉm không được khử trùng sạch sẽ, cùng với các chất bẩn từ nước tiểu, phân của bé sẽ tạo nên môi trường lý tưởng cho vi khuẩn phát triển, dễ gây bệnh ngoài da cũng như các tổn thương khác ở vùng sinh dục.

Thông thường, bỉm được làm nên từ bông, chất thấm hút và các lớp màng nilon. Nếu các nguyên liệu này không đảm bảo tiêu chuẩn, cùng với việc sử dụng các chất tẩy trắng không đúng, bỉm sẽ có thể có các hóa chất nguy hiểm. Những hóa chất tồn dư này có thể gây mẩn ngứa, viêm da, nhiễm trùng tại các cơ quan sinh dục… Thậm chí, một số chuyên gia còn lo ngại rằng các chất này có thể gây hại lâu dài cho sức khỏe của bé, chẳng hạn như nhiễm độc hoặc vô sinh khi trưởng thành.

Bỉm nhái, kém chất lượng có thể gây mẩn ngứa, viêm da, nhiễm trùng tại cơ quan sinh dục.

Bỉm nhái, kém chất lượng có thể gây mẩn ngứa, viêm da, nhiễm trùng tại cơ quan sinh dục.

Theo khuyến cáo của các nhà khoa học Khoa Hóa học, Đại học Quốc gia Hà Nội, ngay cả những sản phẩm bỉm có thương hiệu, nếu dùng thường xuyên cho trẻ nhiều lần trong ngày cũng không tốt, nhất là với trẻ có cơ địa dị ứng. Trong tã giấy (bỉm) có hóa chất diệt khuẩn, diệt mốc, chất tạo hương thơm… Khi không đảm bảo đúng liều lượng, các chất này sẽ bị ôxy hóa thành chất độc gây nguy cơ dị ứng viêm da. Không ít nhà sản xuất còn đưa vào tã giấy loại hóa chất cực mạnh để diệt vi khuẩn. Khi đó, vi khuẩn có lợi cũng bị tiêu diệt càng tạo thuận lợi cho nấm mốc phát triển. Tốt nhất, các bà mẹ chỉ nên dùng những loại tã, bỉm đã được chứng nhận về chất lượng, của các nhãn hàng có uy tín.

Không nên đóng bỉm 24/24h

Trước tiên, dùng bỉm cả ngày sẽ khiến làn da bé bí bức, khó chịu, đặc biệt vào mùa hè nóng bức nếu mặc bỉm 24/24h sẽ khiến bé bị nóng hơn, quấy khóc. Vùng da đóng bỉm suốt cả ngày rất dễ bị hăm, nổi mụn, bị loét. Tình trạng hăm da, nổi mụn kéo dài lâu ngày có thể khiến trẻ bị viêm da, nhiễm khuẩn đường tiểu, trẻ chậm lớn và hay cáu kỉnh, quấy khóc.

Ngoài ra, lạm dụng bỉm cả ngày còn ảnh hưởng đến tâm lý của trẻ. Điều này có thể dẫn đến một thói quen xấu, là khi có nhu cầu vệ sinh trẻ sẽ tự động đi ra bỉm. Lâu dần, trẻ sẽ mất phản xạ gọi để báo cho cha mẹ ngay cả khi đã biết nói. Hệ quả là trẻ không tập được cách đi vệ sinh chủ động, thậm chí một số bé có thể mắc chứng đi tiểu không kiểm soát hoặc tè dầm khi lớn hơn, ảnh hưởng đến cả sức khỏe, sự phát triển và tâm lý của trẻ.

Để an toàn cho trẻ và tránh cho trẻ bị hăm khi dùng bỉm, ThS.BS. Trần Thu Nguyệt khuyên các bậc cha mẹ cần lưu ý: Hãy cho bé mang tã, bỉm vừa với cơ thể và nên rộng rãi, thoải mái một chút. Tã lót nên chọn loại thoáng khí, mềm mại, không kích ứng và là các sản phẩm có nguồn gốc, uy tín.

Không nên đóng bỉm 24/24h cho bé

Không nên đóng bỉm 24/24h cho bé

Không sử dụng xà phòng, các sản phẩm vệ sinh có cồn hoặc mùi thơm để thay rửa cho bé, những chất này có thể làm các triệu chứng hăm tã trầm trọng hơn. Thay bỉm thường xuyên cho trẻ.

Tránh lạm dụng phấn rôm khi dùng bỉm: Phấn rôm khi được thoa vào vùng da nhạy cảm, lại bị “bịt kín” bởi chiếc bỉm khiến những hạt bụi phấn không thoát ra ngoài được. Điều này sẽ gia tăng tình trạng bí bách cho làn da của bé. Ngoài ra, nếu bôi quá nhiều phấn rôm vào vùng kín của trẻ sẽ dẫn đến tình trạng phấn kết hợp với nước tiểu và phân tồn đọng ở trong bỉm của bé gây nên hiện tượng vón cục, gây bít lỗ chân lông và dẫn tới hăm tã ở trẻ.

Không dùng chung kem chống hăm nếu bé đã bị hăm: Nếu bé đã bị hăm tã, không dùng chung kem chống hăm cho nhiều bé. Nếu ngón tay bạn đã chạm vào vùng da bé bị hăm thì bạn không dùng lại ngón tay đó để lấy kem trong hũ nữa mà dùng ngón tay khác để lấy thêm kem. Và hãy nhớ, cho bé đi khám bác sĩ nếu bạn thấy tình trạng hăm tã của bé nặng lên và bé có vẻ rất khó chịu.

Cách phân biệt bỉm thật - giảTheo ThS.BS. Nguyệt, để phân biệt bỉm thật - giả, cha mẹ có thể dựa vào một số dấu hiệu cảm quang sau: Nhìn vào bao bì đóng gói cẩn thận, sắc nét, trên đó có chứng nhận sản phẩm an toàn, có mùi hương dễ chịu, bề mặt nhẵn mịn.Sản phẩm bỉm nhái thường mỏng hơn, bề mặt dạng lỗ, cứng, đường may cẩu thả và có mùi khó chịu, thường không được đóng gói cẩn thận mà bán ở dạng trần, có giá rẻ hơn nhiều.

Thanh Loan

Ngừa mảng bám xơ vữa động mạch

Xơ vữa động mạch hoặc sự phát triển của mảng bám trong động mạch làm cho lòng động mạch hẹp dần và có thể dẫn đến các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng như cơn đau tim và đột quỵ. Mảng bám xơ vữa được tạo thành từ chất béo, và hai thủ phạm chính dẫn đến sự hình thành mảng bám xơ vữa là những chất béo bão hòa và chất béo chuyển hóa được tìm thấy trong nhiều loại thực phẩm.

Nguyên nhân gây mảng bám xơ vữa động mạch

Tăng huyết áp: Tăng huyết áp thường không có bất kỳ triệu chứng đặc hiệu báo trước, do đó rất dễ chủ quan, bỏ sót. Kiểm tra huyết áp thường xuyên, nhất là ở người lớn tuổi là điều cần thiết. Khi huyết áp ở mức cao, gây tác động xấu lên thành động mạch làm cho thành động mạch bị hư hỏng và trở nên dễ bị mảng bám xơ vữa.

Đường trong máu cao: Nếu bạn bị đái tháo đường và lượng đường trong máu của bạn không được kiểm soát tốt, bạn cần phải được điều trị. Đường trong máu quá cao có thể làm hỏng thành động mạch và đây có thể là thủ phạm chính gây ra mảng bám xơ vữa động mạch và có thể dẫn đến xơ vữa động mạch.

Tiêu thụ nhiều rượu: Uống nhiều rượu có thể làm hại sức khỏe và có thể làm tăng huyết áp và dẫn đến tăng mức cholesterol xấu trong máu. Hạn chế tiêu thụ rượu hàng ngày để tránh bị xơ vữa động mạch.

Mảng bám gây hẹp lòng động mạch

Mảng bám gây hẹp lòng động mạch

Thừa cân: Nếu thừa cân, bạn có nhiều khả năng có mức cholesterol cao hơn và có nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường và tăng huyết áp. Giảm cân có thể làm giảm đáng kể các nguy cơ này và có thể ngăn ngừa sự hình thành mảng bám xơ vữa trong động mạch.

Thiếu vận động: Lối sống ít vận động, thiếu tập thể dục và ít hoạt động thể chất làm cho bạn có nguy cơ bị thừa cân và phát triển bệnh tăng huyết áp, đái tháo đường và cholesterol cao trong máu. Các yếu tố nguy cơ vừa nêu góp phần gây ra mảng bám xơ vữa trong động mạch và có thể gây ra các biến chứng nghiêm trọng đối với sức khỏe.

Ăn nhiều chất béo bão hòa: Chất béo bão hòa trong chế độ ăn uống là một trong những thủ phạm chính dẫn đến xơ vữa động mạch và gây ra mảng bám xơ vữa tích tụ trong lòng động mạch. Các nguồn chính của chất béo bão hòa là: bơ, các sản phẩm sữa nguyên chất, phô mai, thịt đã xử lý.

Chế độ ăn uống giàu cholesterol: Thịt, trứng, phô mai và các sản phẩm sữa béo là các thực phẩm giàu cholesterol và đây cũng là lý do để hình thành mảng bám xơ vữa.

Hút thuốc lá: Hút thuốc rất có hại cho sức khỏe. Chất nicotin tìm thấy trong thuốc lá có thể làm hỏng lớp niêm mạc động mạch và các động mạch bị tổn thương dễ dàng hình thành mảng bám xơ vữa.

Thực phẩm phòng ngừa mảng bám xơ vữa động mạch

Dưới đây là một số thực phẩm có thể hữu ích để ngăn ngừa, thậm chí loại bỏ sự tích tụ mảng bám xơ vữa động mạch.

Măng tây: Măng tây có chứa chất xơ, vitamin và khoáng chất. Vitamin C, E, K, B1 và B2 có trong măng tây rất hữu ích trong việc duy trì sức khỏe động mạch và có thể giúp ổn định huyết áp. Tốt nhất nên ăn tươi hoặc hấp măng tây.

Trái bơ: Bơ có nhiều chất béo tốt và rất có lợi cho sức khỏe. Nên thêm bơ vào món xà lách, bánh mì hoặc thêm vào nước trái cây, tạo ra vị ngon và chứa đầy chất xơ, vitamin, chất chống ôxy hóa, chất béo tốt và khoáng chất. Bơ có khả năng làm giảm mức cholesterol trong máu đáng kể và cũng làm tăng HDL trong máu. HDL có thể có lợi cho các động mạch và có khả năng loại bỏ các mảng bám xơ vữa đã được hình thành.

Bông cải xanh: Mức vitamin K cao có trong bông cải xanh rất tốt cho việc duy trì các động mạch khỏe mạnh. Bông cải xanh cũng chứa nhiều vitamin và khoáng chất khác và có thể làm giảm mức LDL. Bông cải xanh có nhiều chất xơ và cũng có thể làm giảm huyết áp. Tất cả những yếu tố này là hữu ích trong việc ngăn ngừa hình thành mảng bám xơ vữa và có thể làm giảm nguy cơ phát triển bệnh tim mạch.

Các quả mọng: Những quả mọng này có nhiều các chất chống ôxy hóa. Các chất chống ôxy hóa làm tăng mức “cholesterol tốt” HDL trong máu. Nên sử dụng các quả mọng như một phần của chế độ ăn uống hàng ngày có thể làm giảm nguy cơ xơ vữa động mạch và nhiều bệnh khác.

Cá béo nước lạnh: Cá béo nước lạnh là thực phẩm được biết đến để làm sạch các động mạch. Cá ngừ, cá hồi, cá thu và cá mòi có chứa chất béo tốt và rất hữu ích để giảm viêm và hạn chế mảng bám xơ vữa tích tụ trong các động mạch. Nên ăn cá béo nước lạnh hai lần một tuần để hạn chế xơ vữa động mạch và tăng cường sức khỏe tim mạch.

Các loại hạt: Hạt dẻ, hạt hạnh nhân, hạt hướng dương, quả óc chó là những lựa chọn ăn nhẹ lành mạnh nhất. Các loại hạt này có chứa vitamin E và chất béo không no, giúp giảm tỷ lệ viêm và giảm hình thành mảng bám xơ vữa trong động mạch.

BS. Thanh Hoài

Dinh dưỡng cho trẻ mùa nóng

Dinh dưỡng hợp lý trong mùa hè oi bức cho những đứa con yêu luôn là một câu hỏi khá hóc búa mà các bà nội trợ thường phải đau đầu để tìm ra câu trả lời. Tùy theo sự thay đổi của thời tiết, chế độ dinh dưỡng của bé cũng khác nhau.

Chế độ ăn

Mùa nóng, thời tiết oi bức nên dinh dưỡng của bé cần mát để giúp giải nhiệt cho cơ thể.

Cho bé ăn nhiều hơn ngày thường nhóm thực phẩm có tính giải nhiệt như: rau giền, rau muống, bí... chúng giúp mang lại cảm giác mát mẻ, đồng thời cung cấp nhiều vitamin cho cơ thể, bổ sung chất xơ, rất tốt cho hệ tiêu hóa của bé.

Mùa hè nóng nực thức ăn của trẻ cần mát để giúp giải nhiệt cơ thể

Bữa ăn của bé cần chia nhỏ và có nhiều canh rau, ít dầu mỡ...

Cho bé ăn bổ sung bằng những bữa ăn bổ mát như: chè hạt sen, sữa, sữa chua, bánh flan...

Thức ăn của bé cần tránh để ngoài nhiệt độ môi trường hơn 2 giờ.

Nước uống

Cho bé uống đủ nước, khoảng 100ml/kg cân nặng/ngày. Thức uống có giá trị dinh dưỡng như: sữa tươi, sữa đậu nành, sữa chua uống, sinh tố, nước ép trái cây. Ngoài ra, còn có nước giải khát như: nước lọc, trà, nước khoáng, nước suối, nước tinh khiết và nước mát được chế biến theo cách dân gian như: nước sâm, rau má...

Những điều cần lưu ý

Khi thời tiết trở nên nóng nực, bé thường nổi nhiều rôm sảy. Vì thế, bạn cần cho bé uống thêm các loại nước mát và bổ dưỡng, bé sẽ bớt nổi mụn, nổi mẩn trên da, đồng thời cơ thể của bé sẽ tăng sức đề kháng với các bệnh lý dễ xảy ra vào mùa nắng nóng. Không cho bé ăn nhiều kem hoặc kem còn đông cứng vì sẽ làm niêm mạc miệng bé bị tổn thương, dẫn đến bé mắc những bệnh về đường hô hấp. Bên cạnh đó, bạn cần chú ý những yếu tố về thời tiết vì thời tiết nóng có thể ảnh hưởng đến dinh dưỡng của bé. Bé dễ mắc bệnh tiêu chảy do thức ăn ôi, thiu, do vi khuẩn dễ sinh sôi nảy nở trong môi trường nóng ẩm cũng như nước đá không tinh khiết.



dụng gì?

BS. THANH HÀ